Thiết kế và phát triển Vought_F-8_Crusader

Tháng 9 năm 1952, Hải quân Hoa Kỳ công bố yêu cầu cho một chiếc máy bay tiêm kích mới. Nó phải đạt tốc độ tối đa 1,2 Mach ở độ cao 9.150 m (30.000 ft), tốc độ lên cao 127 m/s (25.000 ft/min), và tốc độ hạ cánh không lớn hơn 160 km/h (100 mph).[2] Kinh nghiệm Chiến tranh Triều Tiên cho thấy súng máy 12.7 mm (0.50 in) là không đủ và do đó chiếc máy bay mới sẽ mang pháo 20 mm (0.8 in). Để đáp ứng, nhóm thiết kế Vought do John Russell Clark lãnh đạo đã tạo ra chiếc V-383. Điểm khác thường đối với máy bay tiêm kích là nó có cánh gắn cao để chỉ cần bộ càng đáp ngắn và nhẹ.

Đổi mới trong thiết kế bên ngoài là cánh có góc tới thay đổi xoay được 7° khỏi thân khi cất và hạ cánh, cho phép gia tăng lực nâng vì có góc tấn công cao hơn mà không giảm tầm nhìn trước vì thân vẫn giữ nằm ngang.[1][2] Cùng lúc, lực nâng được tăng cường bởi mép trước cánh hạ 25° và cánh tà duỗi ra 30°. Phần còn lại của máy bay được áp dụng các cải tiến khí động học hiện đại với thân máy bay thiết kế giảm sốc (area ruled), các cánh ổn định di động toàn bộ, mấu dạng "răng chó" trên cánh gấp để nâng cao tính ổn định ngang, và kim loại titan được dùng rộng rãi trong khung máy bay. Động lực được cung cấp bởi động cơ turbo phản lực Pratt & Whitney J57 có đốt sau và vũ khí, như yêu cầu của Hải quân, gồm 4 pháo 20 mm, 1 khay thu vào được mang 32 rocket Mighty Mouse FFAR không dẫn đường, và giá mang 2 tên lửa đối không AIM-9 Sidewinder.[2] Hãng Vought cũng giới thiệu 1 phiên bản trinh sát chiến thuật đặt tên là V-382. F-8 Crusader là chiếc máy bay tiêm kích Hoa Kỳ cuối cùng trang bị pháo như là vũ khí căn bản.[1]

Cạnh tranh chính đến từ Grumman với chiếc F-11 Tiger gắn động cơ General Electric J79, McDonnell với phiên bản nâng cấp F3H Demon 2 động cơ (sau này là F-4 Phantom II), và North American với chiếc F-100 Super Sabre cải biến để phục vụ trên tàu sân bay được đặt tên là Super Fury.

F-8C của NASA dùng làm nền tảng thử nghiệm kỹ thuật bay bằng dây dẫn.

Tháng 5 năm 1953, thiết kế của Vought được công bố thắng thầu, và đến tháng 5 Vought nhận được đơn đặt hàng 3 nguyên mẫu XF8U-1 (sau khi áp dụng hệ thống đặt tên thống nhất vào tháng 9 năm 1962, F8U trở thành F-8). Chiếc nguyên mẫu đầu tiên bay vào ngày 25 tháng 3 năm 1955 do John Konrad cầm lái. Máy bay vượt tốc độ âm thanh ngay trong chuyến bay mở màn.[1] Việc phát triển diễn tiến suôn sẽ và chiếc nguyên mẫu thứ hai, cùng với chiếc sản xuất thật F8U-1, bay lần đầu cùng vào ngày 30 tháng 9 năm 1955. Vào ngày 4 tháng 4 năm 1956, F8U-1 cất cánh lần đầu bằng máy phóng trên chiếc tàu sân bay USS Forrestal.

Crusader III

Song song với kiểu F8U-1 và -2, nhóm thiết kế cũng làm việc trên một chiếc máy bay lớn hơn với tính năng cao hơn, đặt tên nội bộ là V-401. Mặc dù F8U-3 Crusader III có bề ngoài tương tự Crusader và chia sẻ những yếu tố thiết kế như cánh có góc tới thay đổi, chiếc tiêm kích mới lớn hơn đáng kể chia sẻ rất ít thành phần chung.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vought_F-8_Crusader http://www.cloudnet.com/~djohnson/records.htm http://www.miottelcollection.com http://www.miottelcollection.com/index.php?pageid=... http://www.vought.com/heritage/photo/html/pjets.ht... http://www.youtube.com/watch?v=TLT39yx-tK0 http://www.youtube.com/watch?v=ZYkTB0UMq4w http://www.hq.nasa.gov/pao/History/SP-468/cover.ht... http://home.att.net/~jbaugher1/f8_18.html http://www.vectorsite.net/avcrus.html http://www.vectorsite.net/avcrus_1.html